Monday, November 17, 2008

Migraine

1/ Migraine không có dấu hiệu thần kinh báo trước
Thông thường khoảng vài giờ trước khi đau đầu, bệnh nhân cảm thấy người mệt mỏi, bứt rứt, dễ cáu gắt, hay ngáp vặt... Sau đó là cơn đau đầu thực thụ. Cơn đau thường bắt đầu vào lúc sáng sớm khi ngủ dậy hoặc vào ban đêm, hiếm khi xảy ra ban ngày, mức độ đau từ từ tăng dần và đạt mức tối đa sau vài giờ. Thoạt đầu, trẻ đau một bên đầu ở vùng trán hoặc trán-thái dương, sau có thể lan ra toàn bộ đầu rồi kết thúc ở bên đối diện nhưng không bao giờ đau lan ra vùng mặt. Trong cơn đau, sắc mặt bệnh nhân xanh tái, da lạnh, nổi gai ốc, người bệnh có cảm giác thái dương như giãn căng ra, mạch máu ở thái dương nẩy đập theo nhịp tim, kèm theo là cảm giác lợm giọng, buồn nôn, nôn, một số trường hợp còn chóng mặt, mất thăng bằng... Một đặc điểm nữa là cơn đau tăng lên khi gắng sức, khi tiếp xúc với ánh sáng, tiếng động mạnh, giảm đi khi nghỉ ngơi yên tĩnh trong bóng tối và khi chườm lạnh hoặc day hai bên thái dương. Ngoài ra, nhiều bệnh nhân khi đau đầu rất nhạy cảm với mùi, có khi họ còn ngửi thấy mùi lạ, tuy nhiên khám bệnh trong cơn đau không có dấu hiệu khách quan về thần kinh. Tiến triển của cơn đau đầu loại này khác nhau tùy từng bệnh nhân, cơn đau có thể kéo dài từ vài giờ đến vài ngày. Ở một số bệnh nhân, cơn đau có chu kì dài, hàng tháng hoặc hàng năm mới bị một lần, một số khác, cơn đau lặp lại thường xuyên, từ cơn này sang cơn khác, từ đầu bên này qua đầu bên kia nhưng bao giờ cũng đau nặng hơn ở một bên đầu.
2/ Migraine có dấu hiệu thần kinh báo trước
Là rối loạn chức năng tạm thời của não, xuất hiện trước đó ít phút báo hiệu cơn đau đầu sẽ đến ngay sau đó. Những dấu hiệu này thường là rối loạn thị giác, cảm giác và rối loạn ngôn ngữ. Về thị giác, bệnh nhân cảm tưởng như có những vân sáng lấp lánh ngoằn nghèo chạy trước mắt hoặc mọi vật xung quanh có màu sắc rực rỡ, một số trường hợp lại không nhìn thấy gì trong vài giây đến vài phút (mù tạm thời). Về cảm giác, người bệnh cảm thấy như có kiến bò hoặc tê cóng ở một bên miệng, tay. Những rối loạn ngôn ngữ hay gặp là nói khó, không hiểu lời người khác hoặc không nói được. Trong đa số các trường hợp, trình tự của các rối loạn này theo thứ tự như sau: Loạn thị giác rồi đến rối loạn cảm giác và ngôn ngữ, tất cả diễn ra trong vòng vài phút và cuối cùng là cơn đau đầu với đặc điểm tương tự như đau đầu trong bệnh Migraine không có dấu hiệu thần kinh báo trước.
3/ Migraine tương đương hay còn gọi là cơn kịch phát Migraine
Biểu hiện bằng những triệu chứng kịch phát về thần kinh, tâm thần, tiêu hóa như chóng mặt, rối loạn thị giác, giác quan, đau bụng dữ dội, nôn, rối loạn tâm thần hoang tuởng, ảo giác cấp tính… Những cơn đau này thuờng xảy ra đột ngột rồi nhanh chóng kết thúc. Sau cơn đau, bệnh nhân hoàn toàn bình thường nhưng có một điều đặc biệt là khi bệnh nhân đi khám bệnh hay làm xét nghiệm thì không phát hiện tổn thuơng thực thể. Do đó các trường hợp này rất dễ chẩn đoán nhầm với bệnh động kinh cục bộ, đặc biệt là động kinh thực vật.
Chính vì các triệu chứng của Migraine đa dạng như vậy nên để chẩn đoán chính xác, bệnh nhân cần khám chuyên khoa thần kinh, làm một số xét nghiệm như điện não đồ, chụp X quang sọ, chụp mạch sọ não nhằm loại trừ một số bệnh có nét giống Migraine như động kinh, tai biến mạch máu não, u não...
ĐIỀU TRỊ Migraine
Điều trị cắt cơn Migraine khi các cơn cách xa nhau, các thuốc thường dùng là thuốc giảm đau thông thường như Aspirin, Paracetamol, Indomethacin... Nếu không đỡ thì dùng thuốc cắt cơn đặc hiệu là dẫn xuất của ergotamin như Gynergen, Migwell hoặc thuốc kháng Serotonin như Sumtriptan. Việc điều trị dự phòng khi tần xuất các cơn đau đầu dày, ít nhất là 3 cơn mỗi tháng trở lên, các thuốc hay dùng là dẫn xuất của ergotamin và chất kháng serotonin như nói ở trên, ngoài ra còn dùng thuốc chẹn beta giao cảm (Avlocardyl), thuốc ức chế kênh calci (Sibelium),5mg thuốc chống trầm cảm (Amitriptylin)... Các thuốc trên có nhiều tác dụng phụ do đó chỉ được dùng khi có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa thần kinh. Ngoài ra, bệnh nhân cần tránh một số yếu tố có thể gây khởi phát cơn đau nửa đầu như hạn chế ăn sữa bò, sô cô la, pho-mát, tránh một số thứ có thể gây dị ứng (tùy từng bệnh nhân). Cuối cùng là điều trị ngoại khoa, vấn đề này chỉ đặt ra khi điều trị nội khoa thất bại. Các phương pháp hay áp dụng là phẫu thuật cắt động mạch thái dương nông, áp lạnh động mạch thái dương.
BS. BÙI HỒNG THANH

Đau nửa đầu, các BS gọi là migraine, là chứng bệnh đau đầu hay gặp nhất ở phụ nữ. Các BS chuyên khoa cho biết có ít nhất 5% tổng số phụ nữ bị đau nửa đầu, có nghĩa là ở Việt Nam ta có cả triệu phụ nữ bị căn bệnh này hành hạ, ít nhất là 1 lần trong đời. Thực tế, đa phần các thư hỏi về đau đầu được gửi tới chuyên mục phòng mạch của "Thế giới phụ nữ" là đau nửa đầu. Đàn ông cũng có thể bị bệnh này, nhưng ít hơn nhiều, và thường cũng không nặng bằng chị em. Bệnh không gây chết người hay tàn phế, nhưng ảnh hưởng nhiều tới sinh hoạt và nghề nghiệp.
Trước khi lên cơn đau đầu, nhiều người thấy có các đốm sáng lấp lánh trước mắt, hoặc mắt mờ đi, chói mắt sợ ánh sáng. Lại có một số ít người ngửi thấy mùi lạ, tê nửa người, yếu bại nửa người, chóng mặt… Nhưng cũng có người không hề có các biểu hiện báo trước như vậy. Sau 20 phút bắt đầu có đau đầu. Thường bị đau một nửa, một bên đầu, do vậy mới gọi là đau nửa đầu. Nhưng cũng có nhiều người đau toàn bộ đầu, hoặc một vùng bất kỳ nào ở đầu, ví dụ đau ở sau ót, cũng vẫn là bệnh đau nửa đầu. Đau đầu thành cơn rõ rệt, đau giật theo nhịp mạch maú đập, hay đau liên tục, có người bị đau dữ dội không chịu được. Trong cơn đau người bệnh hay cảm thấy chói mắt, sợ tiếng ồn, chỉ muốn nằm yên tĩnh quay mặt vào tường. Đa số trong khi đau đầu có chóng mặt và buồn nôn. Nhiều người nôn thốc nôn tháo và chóng mặt quay cuồng. Cơn đau kéo dài khoảng vài giờ, có khi nguyên ngày hoặc thậm chí 2-3 ngày. Đau giảm dần rồi hết hẳn. Có người sau khi nôn ói xong, ngủ một giấc, dậy hết đau đầu. Sau khi hết cơn đau đầu, có thể còn thấy mệt mỏi uể oải vài ngày rồi mới hết hẳn. Tóm lại, đau nửa đầu là chứng đau đầu thành cơn rõ rệt, hết cơn là hết đau đầu. Đau có thể ở bất kỳ vùng nào hoặc toàn bộ đầu nhưng vẫn gọi là bệnh đau nửa đầu. Đau thường kèm chóng mặt, nôn ói.
Các bé gái hiếm khi bị chứng đau đầu này. Thường phụ nữ chỉ bắt đầu bị bệnh khi đã dậy thì. Nhiều chị em khi tới ngày cần dùng tới những thứ "có cánh" hay không có cánh, làm bằng "vật liệu siêu thấm", thì lại bị bệnh này hành hạ; Hoặc trong một tháng bị vài cơn đau, nhưng tới ngày ấy thì cơn nặng hơn nhiều. Aáy là chứng đau nửa đầu hành kinh (menstrual migraine). Cứ 10 người bị bệnh đau nửa đầu, thì có quá nửa cảm thấy giảm hẳn hoặc thậm chí không còn cơn đau nào trong thời kỳ mang thai. Vậy cần khám bệnh và điều trị ở đâu ?
Khi cảm thấy bị bệnh đau nửa đầu, nên khám BS chuyên khoa Nội Thần kinh. Đôi khi BS yêu cầu ghi điện não đồ, hay thậm chí chụp sọ não bằng máy chụp X quang cắt lớp điện toán (CT scan). Những xét nghiệm này nhằm bảo đảm rằng đau đầu ở người bệnh không phải là do những nguyên nhân nguy hiểm khác, mà đúng là bệnh đau nửa đầu. Nếu cơn đau nhẹ, chỉ cần dùng thuốc giảm đau thông thường, kiểu như Panadol hay Alaxan. Nếu cơn đau nặng, có thể cắt cơn bằng Tamik. Khi đang nôn ói, không thể nuốt viên Tamik được, thì chọc thủng viên thuốc rồi ngậm dưới lưỡi, thuốc sẽ ngấm qua lưỡi vào máu. Nếu bị những cơn đau lặp đi lặp lại, hành hạ nhiều không chịu nổi, ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống và công việc, thì dùng Sibelium. Thường người ta khuyên dùng mỗi tối 1 viên, liên tục 6 tháng liền để khỏi hẳn bệnh. Ở bên Tây - Mỹ, người ta ưa dùng một thứ thuốc, gọi là Sumatriptan. Cũng có khi BS dùng Amitriptyllin, Periactin, hay thậm chí thuốc chống động kinh để ngăn cơn đau. Dù là thuốc gì, và dù cách điều trị có vẻ đơn giản, tôi vẫn khuyên bạn đọc nên khám và dùng thuốc theo hướng dẫn của BS chuyên khoa Nội Thần kinh.

Ðiều trị chứng đau nửa đầu từ vừa đến nặng như thế nào ?

Cần dùng thuốc để cắt đứt cơn migraine khi đau đầu mức độ trung bình hay nặng. Các loại thuốc này khác với những thuốc giảm đau thường dùng nêu ở trên. Thay vì làm giảm cơn đau những loại thuốc này có tác dụng chống lại nguyên nhân gây đau đầu, và còn có thể làm co động mạch thái dương. Hai loại thuốc thường dùng là triptan và ergot
Triptan là gì ?
Triptan có khả năng gắn vào các thụ thể của serotonin trên thành mạch và các sợi thần kinh vì vậy nó làm giảm quá trình viêm cũng như làm co mạch. Ðiều này làm chấm dứt cơn đau đầu. Loại thuốc thuộc nhóm triptan thế hệ đầu tiên là sumatriptan (Imitrex). Ở Mỹ, thuốc này được dùng bằng đường tiêm, uống, hay dùng dạng xịt qua mũi. Zolmitriptan (Zomig)và rizatriptan (Maxalt) là hai loại thuốc mới hơn có thể dùng bằng đường uống hay thuốc ngậm tan trong miệng. Naratriptan (Amerge) , almotriptan (Axert), frovatriptan (Frovalan) thì chỉ dùng để uống mà thôi.
Theo nguyên tắc, nhóm thuốc này chỉ được kê đơn khi các loại thuốc giảm đau thông thường không có hiệu quả. Nhưng những nghiên cứu gần đây thì cho rằng có thể dùng triptan ngay từ ban đầu để trị chứng đau nửa đầu này nhất là khi nó làm bệnh nhân suy nhược.
Triptan nên dùng trước khi cơn đau đầu xuất hiện hoặc khi cơn đau đang còn nhẹ. Việc dùng thuốc sớm giúp tăng hiệu quả của thuốc, giảm tác dụng phụ, giảm nguy cơ tái phát cơn đau trong vòng 24 giờ sau. Dùng thuốc sớm ,tripan có thể làm mất đi hơn 80% cơn đau trong vòng 2 giờ.
Tác dụng phụ của triptan là gì ?
Các tác dụng phụ thường gặp của triptan là : đỏ bừng mặt, gây cảm giác ngứa da, cảm giác nghẹn cổ, nặng ngực. Ngoài ra, thuốc còn làm bệnh nhân lơ mơ nửa tỉnh nửa mê, choáng váng, mệt mỏi. Tuy nhiên đó chỉ là những tác dụng phụ trong thời gian ngắn, không đáng ngại lắm.
Tác dụng phụ nguy hiểm nhất là gây nhồi máu cơ tim và làm bệnh nhân bị đột quỵ khi thuyên tắc mạch máu tim hoặc não. Dù tác dụng điều trị của triptan là làm co các động mạch vùng đầu, nhưng nó cũng có thể gây co thắt mạch vành vì vậy có thể gây nhồi máu cơ tim, nhất là ở những bệnh nhân có bị xơ vữa động mạch, lòng mạch bị thu hẹp lại do lắng đọng các mảng xơ vữa, hoặc bệnh nhân hay có những cơn co thắt mạch vành gây đau ngực trước đây (còn được gọi là chứng đau ngực biến thái Prizmetal). Vì vậy triptan không chỉ định cho những bệnh nhân đã từng bị nhồi máu cơ tim, đột quỵ, hay bệnh nhân có dấu hệu của bệnh xơ vữa động mạch (dấu hiệu của xơ vữa động mạch có thể là đau ngực, dấu hiệu thiếu máu cơ tim thoáng qua hay dấu hiệu đi lặc cách hồi do tình trạng cung cấp máu cho chi dưới không liên tục vì lòng mạch bị hẹp do mảng xơ vữa).
Một số bệnh nhân bị xơ vữa động mạch mà không có triệu chứng gì cả, được gọi là thể im lặng. Vì vậy, trước khi cho bệnh nhân dùng thuốc cần kiểm tra lại nếu bệnh nhân có bất kì dấu hiệu nào thuộc nhóm nguy cơ của bệnh xơ vữa động mạch. Các yếu tố nguy cơ đó là hút thuốc, tiểu đường, cao huyết áp, tăng lipoprotein có tỉ trọng thấp (LDL- một loại lipoprotein có hại vì nó làm tăng luợng cholesterone trong máu), béo phì, nam giới trên 40 tuổi, phụ nữ mãn kinh, hoặc có người thân trong gia đình từng bị nhồi máu cơ tim khi còn trẻ. Những đối tượng nguy cơ này nếu phải dùng thuốc thì ngay lần dùng đầu tiên cần theo dõi điện tim liên tục.
Triptan khi dùng có thể tương tác với một số thuốc. Ví dụ khi dùng chung với các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin (SSRIs - thuộc nhóm thuốc điều trị trầm cảm), vài báo cáo cho thấy có thể xảy ra hội chứng serotonin. Hội chứng này gồm :nhầm lẫm, hay quên, sốt, rung cơ, tăng huyết áp, tiêu chảy, đổ mồ hôi. Vài loại thuốc trong nhóm này như sumatriptan, zolmitriptan và rizatriptan có thể tương tác với nhóm thuốc ức chế men monoamine oxidase. Hay như propanolol có thể làm tăng nồng độ rizatriptan trong máu, cimetidine (Tagamet) lại làm tăng nồng độ zolmitriptan.
Triptan không nên dùng cho phụ nữ có thai và trẻ nhỏ.
Ergot là gì ?
Cũng có tác dụng đẩy lùi cơn đau đầu migraine, trong thành phần có chứa ergotamine (Ergomar, Wigraine, Cafergot) và dihydroergotamine (Migranal,Tamik, DHE - 45). Ergot cũng có tác dụng làm co mạch nhưng ái lực của thuốc với tim nhiều hơn triptan, vì vậy tác dụng trên tim của thuốc kéo dài hơn, và việc dùng thuốc không an toàn bằng triptan. Ergot cũng gây buồn nôn và nôn nhiều hơn triptan, nó còn gây tăng co cơ trơn tử cung, vì vậy ở phụ nữ có thai nếu dùng thuốc có thể bị sảy thai hay sanh non.
Midrin là gì ?
Cũng là thuốc điều trị đau đầu do căng thẳng và chứng đau nửa đầu migraine, dùng kết hợp với isometheptene (thuốc gây co mạch), acetaminophen (thuốc giảm đau) và dichloralphedazone (thuốc an thần). Nên dùng trước cơn đau để có tác dụng tốt. Không nên dùng cho bệnh nhân bị tăng huyết áp, suy thận, tăng nhãn áp, bệnh gan, xơ vữa động mạch. Không dùng cùng với nhóm thuốc ức chế men monoamine oxidase.
Có loại thuốc nào khác để trị đau nữa đầu hay không ?
Narcotic và thuốc có chứa butalbital đôi khi cũng được dùng để điều trị chứng đau nửa đầu. Tuy nhiên những thuốc này có khả năng gây nghiện, vì vậy không nên dùng ngay từ ban đầu. Thuốc có thể chỉ định cho những bệnh nhân điều trị không hiệu quả với các thuốc giảm đau thông thường nhưng lại không sử dụng được triptan (do đang mang thai hay có bệnh tim mạch kèm theo).
Ðối với bệnh nhân dễ nôn, nên dùng kèm với một loại thuốc chống nôn khác như prochlorperazine (Compazine), hoặc metoclopramide (Reglan). Nếu bệnh nhân nôn nhiều khiến thuốc không thể hấp thu bằng đường uống thì có thể dùng DHE - 45, prochlorperazide (Compazine), valproate (Depacon).
Phòng ngừa chứng đau nửa đầu bằng cách nào ?
Có hai cách để phòng ngừa chứng đau nửa đầu :
1. Tránh các yếu tố khởi phát cơn đau
2. Dùng thuốc phòng tránh
Thực sự không có cách nào có thể tránh 100%, mà áp dụng các biện pháp này chỉ có thể làm giảm số cơn đau.
Các yếu tố khởi phát cơn đau nửa đầu là gì ?
Chỉ một số ít những bệnh nhân bị chứng đau nửa đầu là tìm được nguyên nhân khởi phát cơn đau rõ ràng, còn đa phần không xác định được.
Những bệnh nhân này có thể xuất hiện cơn đau nếu trước đó họ có một trong các yếu tố sau : stress, rối loạn giấc ngủ, ăn kiêng, hormone, khi bị chói mắt, do một số mùi nào đó, khói thuốc lá, hay do dùng một số thức ăn như pho mai cũ, sôcôla, bột ngọt, các chất nitrite, aspartame, cà phê. Ở một số phụ nữ, trong chu kỳ kinh nguyệt, khi nồng độ estrogen trong máu giảm thấp cũng khởi phát cơn đau đầu. Thời gian từ khi tiếp xúc với các yếu tố khởi phát đến khi đau đầu có thể từ vài giờ đến hai ngày. Không nhất thiết bệnh nhân "phải" đau đầu cứ mỗi khi tiếp xúc với yếu tố khởi phát, ngược lại, không phải là cứ tránh được các yếu tố này là tránh được đau đầu.
Giấc ngủ và chứng đau nửa đầu
Các rối loạn trong giấc ngủ như thiếu ngủ, ngủ không ngon giấc, ngủ không liên tục thường bị đánh thức trong giấc ngủ hay thậm chí ngủ quá nhiều đều được ghi nhận là nguy cơ cho chứng đau nửa đầu và chứng đau đầu do căng thẳng. Tổ chức một giấc ngủ hợp lí có thể làm giảm số lần đau đầu, đồng thời giấc ngủ cũng được cho rằng nó rút ngắn cơn đau.
Ăn kiêng và chứng đau nửa đầu
Ăn kiêng có thể làm khởi phát cơn đau đầu vì ăn kiêng làm phóng thích các hormone gây stress và làm hạ đường huyết.
Ánh sáng và chứng đau nửa đầu
Ánh sáng quá chói hay bất kì điều gì gây kích thích thị giác đều có thể làm cả bệnh nhân lẫn người khoẻ mạnh đau đầu, nhưng bệnh nhân bị chứng bệnh này thì nhạy cảm hơn, nghĩa là chỉ cần kích thích với cường độ yếu hơn là có thể gây đau đầu (ví như ánh sáng mặt trời, ti vi hay đèn flash).
Chất caffein và chứng đau nửa đầu
Chất này có trong nhiều loại thực phẩm như : nước cola, trà, sôcôla, cà phê và cả các thuốc giảm đau thông thường. Dùng caffein với hàm lượng thấp có thể giúp tỉnh táo và tăng khả năng hoạt động, nhưng nếu dùng quá nhiều thì gây mất ngủ, bứt rứt lo lắng và nhức đầu. Ðối với thuốc giảm đau có caffein, lạm dụng nó thì gây chứng nhức đầu kháng thuốc. Hơn nữa, ở một số người dùng caffein liều cao thường xuyên, khi ngưng dùng đột ngột thì cơn đau có khuynh hướng thuyên giảm.
Sôcôla, rượu, tyramine, monosodium glutamate (trong bột ngọt), nitrite, aspartame và chứng đau nửa đầu.
· Sôcôla được khuyến cáo có thể gây đau đầu, nhưng chưa có nghiên cứu nào chứng minh được rõ ràng mối liên hệ này.
· Rượu : cả rượu trắng lẫn rượu đỏ.
· Tyramine (có trong pho mai, rượu, bia, xúc xích nướng, bắp cải muối), dù được cho rằng chất này khởi phát cơn đau đầu, nhưng không có bằng chứng chứng tỏ rằng nếu hạn chế nó thì làm giảm số cơn đau.
· Monosodium glutamate gây đau đầu, đỏ mặt, ra mồ hôi, và đánh trống ngực, nếu dùng lượng nhiều khi đang đói.
· Nitrite và nitrate (có nhiều trong xúc xích, giăm bông, thịt hun khói, dồi).
· Aspartame - một loại chất tạo vị ngọt dùng thay thế cho đường thông thường ở thực phẩm dành cho người ăn kiêng. Các chất này đã được chứng minh là gây đau đầu nhất là khi dùng nhiều.
Hornome sinh dục nữ và chứng đau nửa đầu
Bệnh nhân nữ bị chứng đau nửa đầu thường ghi nhận họ bị nhiều cơn đau đầu hơn khi đang hành kinh. Ðặc biệt một số người chỉ đau đầu vào khoảng thời gian này. Và loại đau đầu này gọi là đau đầu kinh nguyệt . Người ta cho rằng nồng độ estrogen xuống thấp trong chu kì là nguyên nhân của những cơn đau đầu này. Ở phụ nữ dùng thuốc tránh thai, do bản thân thuốc là estrogen tổng hợp, nên vào giai đoạn không dùng thuốc trong một chu kì, nồng độ estrogen trong máu giảm xuống, và bệnh nhân xuất hiện cơn đau đầu.


Bệnh nhân bị chứng đau nửa đầu nên làm gì ?

Nếu đau nhẹ không ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt hàng ngày, thì người bệnh có thể dùng các loại thuốc giảm đau thông thường. Nếu có vài cơn đau nặng hơn trong một tháng, hay đau không giảm khi dùng thuốc giảm đau, thì bệnh nhân nên điều chỉnh cuộc sống sao cho tránh được các yếu tố khởi phát cơn đau. Có thể tham khảo vài cách sau :
- Ði ngủ và thức dậy đúng giờ mỗi ngày.
- Tập thể dục mỗi ngày, ngay cả khi đang đi du lịch hay khi công việc quá bận. Thể dục có thể giúp giấc ngủ ngon hơn đồng thời làm giảm đau đầu (cả số lượng lẫn cường độ cơn đau). Không nên tăng cường độ tập luyện quá nhanh, nên từ từ, vì gắng sức thể lực có thể làm khởi phát cơn đau nhất là bệnh nhân mập quá khổ.
- Không nên bỏ bữa ăn cũng như ăn kiêng lâu quá.
- Hạn chế stress bằng cách vận động và dùng các phương pháp thư giãn khác.
- Không uống quá hai cốc cà phê mỗi ngày, để hạn chế caffein.
- Tránh ánh sáng mạnh, có thể đeo kính râm khi đi nắng nếu như ánh nắng là một yếu tố khởi phát cơn đau.
- Tránh các thức ăn nguy cơ như đã nêu ở trên bằng cách theo dõi chế độ ăn hàng ngày. Tất nhiên không thực tế khi tránh hết tất cả các loại thức ăn đó (nêu tránh thì lấy gì mà ăn ??), mà cố gắng tránh loại nào biết chắc chắn sẽ gây đau đầu nếu ăn vào.
Các loại thuốc nào để phòng ngừa cơn đau đầu migraine ?
Ðó là những thuốc dùng hàng ngày để giảm số cơn đau và thời gian đau, không phải là thuốc dùng khi đang trong cơn đau đầu. Có các nhóm thuốc sau :
1 .Thuốc ức chế beta:
Khóa các tác dụng của các chất adrenergic (adrenaline) lên thụ thể beta.
Các thuốc này làm chậm nhịp tim, dùng điều trị tăng huyết áp, cơn đau thắt ngực, loạn nhịp tim nhanh (đánh trống ngực), điều trị cho bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim. Cơ chế làm giảm đau không rõ, có thể do ức chế sản xuất prostaglandin, serotonin, hay tác dụng trực tiếp lên thành mạch.
Các thuốc ức chế beta thường dùng : propanolol (Inderal), atenolol (Tenormin), metoprolol (Lopressor, Lopressor LA, Toprol XL), nadolol (Corgard), và timolol (Blocadren). Các thuốc này được dung nạp khá tốt, tuy nhiên nó có thể gây khó thở ở bệnh nhân bị hen suyễn, viêm phế quản mãn, khí phế thủng. Thuốc cũng nguy hiểm cho bệnh nhân có nhịp tim chậm hoặc bị block tim vì nó có thể làm tim đập chậm hơn. Ngoài ra thuốc còn làm nặng các triệu chứng của suy tim. Các tác dụng phụ khác của thuốc là lơ mơ, tiêu chảy, táo bón, mệt mỏi, giảm sức chịu đựng, mất ngủ, buồn nôn, trầm cảm, mất trí nhớ, ảo giác, bất lực.
2 .Thuốc chống trầm cảm
Cơ chế của thuốc là làm giảm các chất dẫn truyền thần kinh, norepinephrine, serotonin. Các thuốc thường dùng như amitriptyline (Elavin), nortriptyline (Pamelor, Aventyl) ,doxepine (Sinequan), imipramine (Tofranil), protriptyline.
Các tác dụng phụ của thuốc gồm : tăng nhịp tim, mờ mắt, tiểu khó, khô miệng, táo bón, thay đổi cân nặng, và hạ huyết áp tư thế.
Không dùng cùng các thuốc ức chế monoamine oxidase, như isocarboxazid (Marplan), phenelzine (Nardil), tranylcypromine (Parnate), procarbazine (Matulane), có thể gây động kinh và tử vong khi bệnh nhân sốt cao. Dùng thật thận trọng cho bệnh nhân bị động kinh vì nó làm tăng nguy cơ lên cơn động kinh. Bệnh nhân bị phì đại tuyến tiền liệt cũng cần cẩn trọng khi dùng thuốc vì thuốc càng làm cho bệnh nhân tiểu khó. Bệnh nhân bị tăng nhãn áp, thuốc có thể làm cho bệnh nặng hơn. Thuốc còn gây hiệu quả an thần mạnh nếu dùng kết hợp với các chất gây ức chế hoạt động của não khác như cồn, barbiturate, narcotic, nhóm benzodiazepine (như lorazepam - Ativan, diazepam - Valium, temazepam - Restori, oxazepam - Serax, clonazepam - Klonopin, zolpidem - Ambien). Epinerphrine không nên dùng cùng amitriptyline vì nếu kết hợp cả hai thuốc có thể gây cơn tăng huyết áp ác tính.
3 .Thuốc kháng serotonin :
Methysergide (Sansert) chống đau đầu bằng cách gây co mạch và kháng viêm. Methylergonovine là dẫn xuất từ methysergide, có cơ chế tác dụng tương tự. Nhưng nhóm thuốc này ít được dùng vì có nhiều tác dụng phụ. Nghiêm trọng nhất là làm xơ hoá lòng niệu quản khiến tắc nghẽn đường dẫn tiểu gây trào ngược nước tiểu về thận. Trào nguợc nước tiểu làm bệnh nhân đau vùng hông lưng và cuối cùng sẽ dẫn đến suy thận. Methysergide còn làm xơ hoá phổi, gây đau ngực, khó thở, thở nông.
4 .Thuốc ứng chế kênh canxi :
Tác dụng của thuốc là khóa các kênh đưa canxi vào trong tế bào cơ tim và thành mạch, làm giảm sức co cơ tim, làm giảm nhịp tim và hạ huyết áp. Thuốc này dùng để điều trị tăng huyếp áp, đau thắt ngực do thiếu máu cơ tim, loạn nhịp tim (rung nhĩ chẳng hạn). Thuốc còn có tác dụng khoá serotonin, một hoá chất có trong sợi thần kinh, vì thế đôi khi có thể dùng để điều trị chứng đau nửa đầu.
Những thuốc thuộc nhóm này có thể kể là : diltiazem (Cardizem, Dilacor, Tiazac), verapamin (Calan, Verelan, Isoptin) và minodipine.
Tác dụng phụ thường gặp là : táo bón, buồn nôn, đau đầu, phù, nổi mẫn ở da, hạ huyết áp, lơ mơ, choáng váng. Dùng diliazem hay verapamine cho bệnh nhân suy tim, các triệu chứng của suy tim có thể nặng hơn vì thuốc làm giảm sức co bóp của cơ tim. Thuốc còn làm chậm sự đào thải và làm tăng nồng độ trong máu của carbamazepine (Tegretol), simvastatin (Zocor), atorvastatin (Lipitor), Iovastatin (Mevacor), nếu dùng đồng thời và có thể làm bệnh nhân bị ngộ độc thuốc.
5 . Thuốc chống động kinh :
Thuốc chống động kinh có thể dùng như phenobarbital, gabapentin, valproic acid. Cơ chế tại sao không rõ.
Những ai nên dùng thuốc để phòng ngừa đau nửa đầu ?
Không phải mọi bệnh nhân đều phải dùng thuốc. Những bệnh nhân mà đáp ứng tốt với thuốc giảm đau thông thường thì không nên phòng bằng các thuốc này. Chỉ những bệnh nhân sau đây đuợc khuyến cáo dùng thuốc :
- Dùng thuốc trị khi cơn đau hơn hai lần một tuần.
- Có hơn hai cơn đau mà không đáp ứng với thuốc trong vòng một tháng.
- Đau đầu ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt hàng ngày.
- Chống chỉ định với các thuốc trị cơn đau như có bệnh tim, bị đột quỵ, có thai, hay không có khả năng dung nạp thuốc vì tác dụng phụ của nó.
Tác dụng của thuốc ngừa đau đầu là gì ?
Các thuốc này làm giảm số cơn đau cũng như thời gian kéo dài của mỗi cơn, nhưng không có khả năng "tống khứ" cơn đau. Tỉ lệ thành công của các loại thuốc này khoảng 50%, thành công tức là làm giảm hơn một nửa số lần đau đầu. Thuốc nên dùng bắt đầu với liều thấp, sau đó tăng dần liều để tránh bớt tác dụng phụ. Ðôi khi bệnh nhân không thấy đuợc tác dụng của thuốc trong thời gian 2-3 tháng đầu sử dụng vì tác dụng của thuốc là từ từ.
Dùng thuốc điều trị ngừa đau nửa đầu như thế nào là thích hợp ?
Cách dùng thuốc ngừa đau đầu thích hợp nhất :
- Bác sĩ gia đình nên là người kê toa và hướng dẫn cách sử dụng.
- Khi quyết định chọn loại thuốc nào cần xem xét các tác dụng phụ của nó và các bệnh liên quan mà bệnh nhân đang có.
- Propanolol nên được dùng đầu tiên để phòng ngừa đau đầu, nhưng có thể gây ra cơn hen suyễn cho bệnh nhân, khi bệnh nhân lần đầu dùng thuốc.
- Amitriptyline là thuốc thường dùng nhất.
- Dùng từ liều thấp đến cao, tăng liều từ từ nếu cần thiết. Cách này làm hạn chế các tác dụng phụ của thuốc. Khi dùng thuốc thường xuyên trong thời gian dài, nếu cần ngưng thuốc cũng không nên ngưng đột ngột mà phải từ từ. Vì nếu ngưng thuốc đột ngột có thể làm tái phát cơn đau đầu.
- Nếu cần có thể dùng hơn một thuốc. Ngược lại có thể không cần dùng thuốc mà áp dụng cách thực hiện hành vi sức khoẻ đúng.
Ðiều trị đau đầu từng cơn như thế nào ?
Giống như chứng đau nửa đầu có hai cách để điều trị: bệnh nhân bị đau đầu từng cơn, đó là dùng thuốc để cắt đứt cơn đau đầu và cách thứ hai là dùng thuốc ngăn ngừa cơn đau đầu xảy ra. Thuốc cắt đứt cơn đau có khả năng làm ngưng cơn đau khi nó đang diễn ra, còn thuốc ngăn ngừa cơn đau thì có thể làm giảm số lượng cũng như thời gian đau.
Ðiều trị cắt đứt cơn đau có thể bằng cách cho bệnh nhân thở oxy 100% 8 -10 lít / phút bằng mặt nạ không thở lại trong thời gian từ 10 - 15 phút song song đó là cho bệnh nhân dùng Triptan (có thể là Sumatriptan, dùng qua xông mũi, tiêm dưới da hay tiêm bắp) hay Ergot (như DHE chẳng hạn, dùng tiêm tĩnh mạch, tiêm dưới da, tiêm bắp).
Thuốc ức chế kênh canxi, verapamil (như Calan, Veralan, Isoptin) cũng là những thuốc được lựa chọn để ngăn ngừa cơn đau đầu. Một số loại khác như valproate, ergotamine, lithium, methysergide. Verapamil đôi khi cũng có thể dùng kết hợp với các thuốc ngừa đau đầu khác. Nên dùng thuốc các thuốc ngừa đau đầu sớm trước mỗi đợt đau đầu, và kéo dài hơn hai tuần khi đau đầu đã hết. Sau đó nên giảm liều từ từ. Có thể dùng prednisone với liều giảm dần trong 1 -2 tuần đầu điều trị, vì lúc này các thuốc ngừa đau đầu chưa có tác dụng. Phải sau hai tuần dùng thì các thuốc trên mới có tác dụng, trong khi đó prednisone lại có khả năng cải thiện đau đầu hiệu quả.
Ðiều trị đau nửa đầu do kinh nguyệt như thế nào ?
1. Nên dùng thuốc sau khi đau đầu khởi phát. Thường thì các thuốc cắt cơn đau đầu thông thường cũng có khả năng chấm dứt cơn đau đầu do kinh nguyệt.
2. Ðể ngăn ngừa cơn đau đầu kinh nguyệt, nên dùng thuốc ngay trước khi cơn đau đầu xảy ra và kéo dài cho đến khi hết đợt. Có thể dùng estrogen để phòng đau đầu.
3. Ðể giảm số lần cũng như thời gian kéo dài cơn đau, có thể dùng các thuốc ngăn ngừa đau đầu như thuốc ức chế beta, thuốc ức chế kênh canxi, thuốc chống, thuốc chống động kinh, thuốc chống trầm cảm.
Nhóm thuốc NSAIDs như naproxen sodium (Aleve) hay ibuprofen (Avid, Motrin) khá hiệu quả trong việc cắt đứt cơn đau đầu kinh nguyệt. Kết hợp các thuốc giảm đau chứa acetaminophen, aspirin và caffein cũng khá tốt. Nếu đoán trước được cơn đau đầu, có thể dùng NSAIDs khoảng 24 trước khi cơn đau khởi phát và kéo dài cho đến khi nó chấm dứt. Vì cơ chế của NSAIDs là ức chế prostaglandin nên thuốc cũng có khả năng làm giảm đau bụng kinh.
Nhóm triptan (naratriptan, rizatriptan, sumatriptan, zolmitriptan) cũng hiệu quả trong điều trị chứng đau đầu này, đồng thời chống buồn nôn và nôn. Ðể giảm tần số và cường độ đau, dùng sumatriptan 2 -3 ngày trước khi đau và kéo dài cho đến hết đợt. Dùng naratriptan cũng tương tự.
Dihydroergotamine (DHE) dùng dạng xịt hay tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch đều có thể để cắt đứt cơn đau. Ergotamine (dạng uống, đặt hậu môn, hay dạng xịt mũi), DHE (dạng xịt, tiêm bắp, tiêm mạch) có thể dùng trong khi đang hành kinh (trước và sau kỳ kinh vài ngày).
Nếu các thuốc trên không hiệu quả, bác sĩ nên cho bệnh nhân dùng các thuốc ngăn ngừa cơn đau hàng ngày như thuốc ức chế beta, thuốc chống động kinh, thuốc điều trị trầm cảm. Việc lựa chọn thuốc cần căn cứ vào kinh nghiệm của thầy thuốc, vào các tác dụng phụ của thuốc và bệnh căn bản mà bệnh nhân đang có.
Nếu đã dùng các thuốc trên mà vẫn không hiệu quả, thử tăng liều thuốc nhất là khi đang hành kinh. Ðôi khi có thể dùng thử estrogen cho bệnh nhân vì nồng độ estrogen trong máu hạ xuống vào giai đoạn này của chu kỳ kinh nguyệt là một yếu tố khởi phát cơn đau. Trên một số bệnh nhân, estradiol dán ngoài da như TTS50, TTS100, tỏ ra khá hiệu quả nếu dùng trước khi đau đầu 2 ngày và kéo dài trong khoảng 1 tuần. Liều lượng cần theo dõi cận thận vì nếu liều quá cao cũng gây đau đầu nhất là những bệnh nhân dễ mẫn cảm.
Trên những phụ nữ không thể khống chế được đau đầu bằng các loại thuốc trên, có thể dùng thử thuốc ngừa thai uống liều thấp để ổn định nồng độ estrogen.
Ngoài ra, còn có vài loại thuốc khác như tamoxifen, bromocriptine, danazol, hormone kích thích tiết các gonadotropine
(Theo BSGĐ)

---------
Đang uống Tamik và Flunarazine >.<

No comments:

Post a Comment