Tôi
sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một
hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: “Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?”
Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: “Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên,
mười năm sau ta sẽ trở lại”. Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi
hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi
xuống núi.
Lớn lên, tôi giống cha tôi như đúc và rất được mẹ yêu
chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hoà
trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng
thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được
cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Đề, một trường phổ thông tư thục
của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Đại Đức thì gặp cô bé nữ sinh
tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì
thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản
lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại
cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay trước sư
cụ trụ trì: “Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy
dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao
lại khước từ?”
Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành
vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây
vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Đã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem
đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng
kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo
phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi:
“Mấy con ếch lạy khéo không thưa thầy M.H” Rồi bà cười ha hả: “Đi tu mà
chẳng chót đời, làm thân con ếch cho người lột da”. Tính mẹ tôi mau
nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà
kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người
trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha
tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với
ai mà như có phép thần thông, chạm vao đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở
làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời
đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ
bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm…
Cô ruột tôi giận lắm, bảo: “Mẹ mi là
con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời
tục của ổng.” Ai cũng khuyên đăng báo tìm, nhưng cha tôi chỉ nói “Đừng”.
Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya
nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy,
kiếp nào cha mới đến Tây Phương?
Cơ sở làm hương từ đó phó mặc
cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại khu vườn sáng sủa.
“Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi
hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni.”
Tôi
dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi
trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào búi
tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn…
Năm tôi
mười tuổi, có vị Đại Đức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Đế. Tôi đi
theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo: “Kinh
sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?” Tôi chỉ lắc đầu…
Nơi
thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am – am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã
cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ
loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi
học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi tôi bắt đầu chướng tính. Sư
huynh hạch tôi: “Bạch thầy, Đăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà phê Tím.
Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có,
cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác”. Tôi
ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không
mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi,
không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp tụng
kinh, tôi biện bạch: “Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên
núi, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời, làm sao hiểu đời đục mà
tránh?” Thầy hỏi: “Ai bảo con là đời đục? Đời không đục, không trong.”
Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì.
Tu trên non bây giờ
thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu nhưng rồi
vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn.
Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới
thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím
trong hồ, chạy vào tới tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không
quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn những
làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi
tên hoa, tôi giảng:
“Đây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ.
Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải màu vàng”. Cô chìa
tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày: “Này, đừng
nghịch”. Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi. “Anh cứ
tưới đi, em cũng là Lan”. Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô
bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: “Con Lan
hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai vừa quậy”. Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh
tôi cáu kỉnh: “Mấy con Thị Màu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết
quyến rũ sư tăng là tội đoạ địa ngục hử?” Tôi cự: “Người ta chỉ đùa thế,
có gì mà gọi là quyến rũ”.
Từ đó, vài hôm một lần, Lan lại đến
giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đây là cả một thế
giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Điểm thì
trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước giò. Lan phụng phịu: “Hoa nào cũng
có tên riêng, chỉ em không có”. Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong
trẻo với cái miệng hồn nhiên như trẻ thơ. “Vậy tôi đặt cho cô
một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi”.
Thầy
biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo:
“Không can gì”. “Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi
con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?” Thầy gật đầu.
Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức
vẽ mục đồng chăn trâu. “Đây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu
học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó”.
Tôi động lòng, hỏi: “Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn
trâu, chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây
trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu
thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác
ngộ bên trong”. Thầy cười: “Đúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng
khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây
buộc, có người chăn dắt. Đến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể
như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn
nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên chín rầng mây”. Tôi vái thầy mà thưa:
“Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi
không giữ vườn lan nữa.”
Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới
vườn, còn tôi thì chẻ củi. “Anh không thích phong lan nữa sao?”. “Không.
Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời
tôi chỉ riêng nhớ hoàng lan”. Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan
cánh mảnh mai, vàng như màu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ rằm, mồng
một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói
nhỏ xinh xinh toả thơm ngây ngất. Lan bảo: “Thích ghê, em chưa thấy bao
giờ”. Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần
theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi
lớn lên, lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ,
thương thương…
Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo người đẩy, chở phong
lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy
những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra.
“Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường”.Tôi nghe tiếng,
quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo: “Cúng dường
thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng”. Tôi hãi hồn,
vội nói: “Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây”. Lan bật
cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: “Sao lâu nay
anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho
vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa”.
Mấy buổi sau, tôi theo
các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ.
Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan, còn cô bé thì chẳng nhìn ai, cứ
lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng
hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng
tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng
đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt…
Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán.
“Con
Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh sợ đàn ông. Đếch thằng nào
đến gần được, nó tránh như tránh tà”. “Không phải đâu, nó giữ giá để chờ
lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó”. “Giữ
giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà phê Tím. Tao thấy nó ngồi một
bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức”. Tôi im lặng, một lát sau mới bảo:
“Khó tin”. “Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra – bạn tôi nói, vẻ ông
cụ non – Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư
cho thằng Quắn”.
Đạp xe về đã đến quá lăng Tự Đức, tự nhiên tôi
bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt
thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi: “Nhà chùa có việc
gì mà nhắc cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi”. Tôi
tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch
vì âm vang những lời nói của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu:
“Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt quá dài, môi mỏng, cổ cao,
tai nhỏ. Đấy là tướng hồng nhan mệnh yểu.”… Trời chập choạng tối, tới
Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi
trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống, Lan lắc đầu, Quắn cố
nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn: “Đồ lừa đảo. Từ nay chừa cái
thói dỗ gái đi”. Quay sang Lan, tôi nạt: “Đi về!” Không biết Lan có bị
một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi.
Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực chùi máu mũi
nhìn theo, cái nhìn của một con thú mất mồi…
Trên đường về, Lan
tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi, khóc: “Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều
thư, anh có nhận được không?” Tôi cau mặt: “Em khờ lắm, sao lại đi với
thằng Quắn?” “Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ
Ninh đến”. “Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Đừng dại dột để bọn lưu
manh làm nhơ bẩn”. Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm
vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ ven đường. Lan ngồi bên
tôi. “Đêm nào nằm mơ cũng thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình
về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?” Tôi không trả
lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng
sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng
tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa… “Em có thích
nghe chuyện cổ tích không?” “Thích”. Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử
tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua
mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ: “Sao có người làm được
như thế?” Tôi gật đầu: “Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vầy. Vị thiền
sư trả lời: “Bệ hạ hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống
chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được.
Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống thì việc tu
hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua”. Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên
tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia
sáng ương ngạnh lạ lùng. “Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử
của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh
và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?” Tôi bảo: “Em nói gì thế? Chuyện
sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con”. Lan cười…
Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa.
Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay không? Chỉ thấy ngợp vì
trăng. Trăng sáng quá. “Thôi, về đi em”. Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập
chờn lấp loá những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và
Phật…
Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô
tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo: “Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu”.
“Không có lửa làm sao có khói. Ăn ốc, đánh lộn, dành gái. Thế còn gì là
tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên”. Tôi ngẩn
người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức: “Cháu tưởng
chuyện gì cũng cười là xong sao?”
Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về.
“Con
ma nữ” đã uống hai mươi viên Sedusen, may sao nhà biết được, chở đi cấp
cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: “Bác biết tính con Lan
lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần
này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con”. Tôi cuống quýt:
“Bác bảo con làm sao được?” “Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn,
tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu
ra”. Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi
bảo vợ: “Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau
rồi sẽ có phước được che lọng vàng.
Lẽ nào vì con mình mà để người ta
mang tai mang tiếng”. Tôi thở dài: “Cháu đi tu không phải là mong lọng
vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một
nghìn lần kinh Thuỷ Sám”. Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng,
đứng dậy đi…
Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo: “Sao con
bỏ học?” Tôi nói: “Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng”. Tôi tự
đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi
khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy
ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy: “Bạch thầy”.
Thầy tôi bảo: “Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn.” Tôi nói:
“Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An”. Thầy
lặng lẽ một lúc rồi bảo tôi: “Tâm không an, có cầu cũng vô ích”. Tôi gật
đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ,
thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực.
Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi
thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió. “Thầy
ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không?
Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?” Thầy
nhìn vào mắt tôi:
“Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về,
cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình.” Tôi lắc
đầu: “Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi”.
Ra
xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước
đầu tiên đã úa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy
nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi
trầm mới thơm thơm trong không gian.
Đang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến: “Chú Ninh!”
Tôi
ngẩng lên. Mẹ của Lan. “Bác lên chùa cầu cho em đi bình an…” Bà đưa cho
tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.
Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan:
“Bốn
trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua
cuộc. Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm
sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng
xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh
bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích
hoàng lan…
Người ta cứ bảo em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi
Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không
phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi
xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh
cầu siêu thoát, một lần thôi…”
Bất giác, tôi oà khóc. Nước mắt
theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục luỵ cuối cùng.
“Cứ khóc đi con” – Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt – “Thầy
chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ”. Tôi nức nở: “Bạch thầy, thầy có
cho con trồng cây Hoàng Lan không?”
Thầy bảo: “Cỏ cây vô tội,
sao mình không thể bao dung?” Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây
đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.
Tôi tưới cây bằng
nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng
mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.
Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ… (Hết)